1/3/15

Chiếc võng, văn hóa Việt


Có thể nói cái vong xep là hình tượng văn hoá rất gần gũi với nền văn hoá Việt.
Cái võng là hình tượng văn hoá bởi vì đơn thuần đó không chỉ là một dụng cụ hay một phương tiện để ru em, nhưng cái võng còn có cả một hồn dân tộc, không những ru em, có khi người ta còn ví von như ru tình, không dừng lại ở tình yêu mà ru cả cuộc đời những khi an bình hay cả những khi loạn lạc chiến tranh. Chiếc võng gắn liền với nhiều ký ức sống động, gắn liền với con người từ thơ bé đến khi già nua tóc bạc vẫn nằm trên võng để đi tìm giấc ngủ bình yên.
Cái võng về hình thể, đơn giản có thể là miếng vải đủ rộng và dài buộc túm ở hai đầu chiều dài, treo hai đầu vào hai chiếc cột hoặc giữa khoảng hai gốc cây. Uyển chuyển là linh hoạt như tính cách người Việt, nó thay chiếc giừơng cồng kềnh, nặng nề. Nó thay vòng tay người mẹ, ông bố hoặc anh chị, khi mọi người đều tất bật công việc, để ru em dỗ vào giấc ngủ.
Thường ngày xưa, những bà mẹ nuôi con thơ vẫn phải đi làm trong những ngày mùa hay cấy. Các bà không thể để con ở nhà, cũng không thể địu con trên lưng như cách thức người dân tộc, họ mang con theo nhưng đặt con trên võng mắc dưới những làn cây, chốc chốc quay mặt nhìn xem chừng. Thường khoảng giữa những cánh đồng có vài cụm cây cao lớn, ở đó họ nghỉ giữa buổi làm đồng, hoặc ăn cơm trưa, nghỉ ngơi sau buổi sáng làm việc. Cũng nơi đó, họ trồng thêm những cây cách khỏang nhỏ đủ mắc vài chiếc võng, hoặc vài cành cây sà thấp đủ mắc võng. Vừa là nơi đặt con ngủ, vừa có thể là nơi nghỉ ngơi cho con bú.
Chiếc võng, gắn liền với nhiều ký ức mà khó có thể quên, ký ức ấy vọng lại câu ca dao, vọng lại những thanh âm của bài hát ru. Tiếng võng kẽo kẹt buổi trưa hè oi ả vọng lại những tâm tình của mẹ, vọng lại những ngày nắng mưa, vọng lại những giọt mồ hôi kết từ những gian lao vất vả một đời ba mẹ nuôi con. Nếu không là người Việt Nam chắc hẳn cũng khó hiểu về chiếc võng.
Chiếc võng ít được thấy ở các nền văn hoá khác. Nếu người Châu Âu có chiếc túi ngủ, nhưng chẳng sánh bằng tiện dụng của chiếc võng. Với Việt Nam , võng có mặt nhiều nơi: Trong cuộc rước vinh quy “Võng chàng đi trước, võng nàng theo sau”, trong hành trang người lính, trong chiếc túi của người đi xa, trong gánh hàng của mẹ, trong túi người đi thi. Võng mang một chức năng đa dạng, nơi nằm đọc sách, nơi nằm trầm tư, nơi ngồi kể chuyện cổ tích, nơi dỗ giấc ngủ, nơi nằm nghỉ ngơi… Chiếc võng đi vào văn hoá, mang những vần thơ, đọng vào những ký ức và dệt thành nhiều cuộc đời.
Nhiều người vẫn ngạc nhiên, bao nhiêu năm nằm hầm trú đạn, bao nhiêu năm loạn lạc chiến tranh, bao nhiều ngày sống trong tang tóc và ly tán, một dân tộc lại không chịu căn bệnh trầm cảm hoặc bị stress. Ai có ngờ chiếc võng làm nên những kỳ diệu ấy, sau những lúc hỗn loạn, con trẻ lại được đặt trên võng, à ơi bằng những khúc dân ca, đưa ru bằng những đồng dao thanh bình hoặc ngay cả người lớn vẫn tìm thấy hương vị của những ngày xưa ấy, thả hồn vào những ngày tháng yên bình ngay cả lúc đang lánh nạn vì chiến tranh.
Hình tượng chiếc võng đi vào văn hoá nghệ thuật, hoá thân thành những tâm hồn, ẩn sâu trong hoài niệm ký ức, khó có thể có một thay thế mà không bị khập khiễng.
Cái nôi đi vào trong văn học nghệ thuật muộn thời hơn, cùng với thời gian hội nhập từ nền văn hoá Châu Âu đầu thế kỷ 19 và 20. Dù hình ảnh chiếc nôi được dùng nhiều để diễn tả sự sống phôi thai từ trong trứng nước, nhưng vẫn không xoá nhoà hình ảnh chiếc võng Việt cùng với những âm thanh kẽo kẹt và lời ru. Chiếc nôi dần dà được biến đổi thành chiếc võng nghĩa là cũng đưa qua đưa lại bằng một moteur điện. Sự thay thế ấy vẫn không xoá nhoà hình ảnh chiếc võng. Chiếc nôi dù sao vẫn không nhẹ nhàng và tiện dụng bằng chiếc võng, khi cần thiết thu lại, thì gỡ một đầu mắc vào cùng một đầu kia. Chiếc nôi tuy gọn nhưng xếp lại vẫn cồng kềnh. Vậy mới thấy cái công dụng và hiệu năng của chiếc võng Việt như một sản phẩm mang đầy biểu tượng tính cách Việt.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.